Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 93 năm ngày thành lập hội LHPN Việt Nam (20/10/1930-20/10/2023)
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ra đời
trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong suốt chiều dài lịch sử 93 năm, Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam đã không ngừng phát triển và trở thành một tổ chức chính
trị - xã hội lớn mạnh, rộng khắp, vận động, tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ
nữ tham gia tích cực và đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Cùng nhìn lại những dấu mốc lịch sử
quan trọng trong sự trưởng thành và phát triển của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam.
Những mốc son tiền đề
Giai đoạn 1927 - 1930: Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là những
người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nên luôn mong muốn được giải
phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu Pháp xâm lược Việt
Nam, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa
Thục, Đông Du.
Tiêu biểu trong giai đoạn này, cả
nước có 5 nhóm phụ nữ yêu nước được tổ chức với nhiều hình thức hoạt động phong
phú. Năm 1927, nhóm ba chị em Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị
Minh Lãng, Nguyễn Thị Thủy ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia thanh niên Cách
mạng đồng chí hội đã tuyên truyền, xây dựng tổ học nghề đăng ten gồm 30 chị vừa
học nghề vừa học chữ. Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Huỳnh Thị Thuyên, Nguyễn Thị Quang Thái ở Huế tham gia Sinh
hội đỏ ở trường Nữ học Đồng Khánh. Ở Triệu Phong (Quảng Trị) có
nhóm các chị Hoàng Thị Ái, Lê Thị Quế tổ chức cửa hàng Hưng Nghiệp
Hội Xã để làm tài chính cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Ở Mỹ Tho,
tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lập ra Gánh hát Đồng nữ do cô giáo
Trần Ngọc Viện (Ba Viện) phụ trách đã tập hợp 30 thiếu
nữ là con em các gia đình yêu nước đi diễn lưu động những vở tuồng
có nội dung tiến bộ qua nhiều tỉnh để vừa tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho
quần chúng, vừa gây dựng tài chính cho Hội. Nhiều phụ nữ trong gánh hát sau nay
trở thành đảng viên, cán bộ cách mạng.
Năm 1928, do ảnh hưởng của
phong trào Duy Tân và tiếp thu tư tưởng tiến bộ qua sách báo, xuất hiện nhiều
phong trào đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ. Ở Đà Nẵng, nhiều chị em tham gia tổ chức “Đà thành
Nữ công học Hội”. Ở Nghệ An tổ chức “Phụ nữ đoàn” ngày càng phát triển.
Riêng năm 1928 phát triển thêm được 50 người, chị Nguyễn Thị Minh Khai
được cử làm Bí thư “Phụ nữ đoàn” và làm giao thông bí mật của liên
tỉnh. Năm 1929, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng Nguyễn Thị Phúc,
Nguyễn Thị An liên hệ với chị Nguyễn Thị Xân, Nguyễn Thị Thiu, Nguyễn Thị
Nhuận thành lập tổ Phụ nữ giải phóng ở Vinh… Các tổ nhóm này vừa
tham gia sinh hoạt vừa âm thầm tuyên truyền hoạt động cách mạng.
Năm 1930: Tại Hội
nghị thành lập Đảng Cộng Sản từ ngày 6/1/1930 - 8/2/1930, bên cạnh
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình điều lệ tóm
tắt của Đảng, Hội nghị còn quyết định thành lập các tổ chức quần
chúng do Đảng lãnh đạo, trong đó có Hội phụ nữ Giải phóng.
Sau khi thành lập Đảng, từ ngày 14-31/10/1930, tại Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất, bên cạnh việc thảo luận
Luận Cương chính trị của Đảng, Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về
Phụ nữ vận động, trong đó đề ra nhiệm vụ phải tổ chức ra các đoàn thể
phụ nữ như “phụ nữ hiệp hội”. Đồng thời
Trung ương Đảng đã đề ra Điều lệ Phụ nữ Liên hiệp
Hội. Với tính chất quan trọng như vậy, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất tháng 10/1930 đã đánh
dấu quá trình hình thành tổ chức Hội đầu tiên của phong trào phụ
nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Giai đoạn 1930 - 1936: Hoạt động của phong trào phụ nữ thời kỳ này có nhiều phương
thức tổ chức thích hợp với chủ trương hoạt động bí mật của Đảng như Hội cấy,
Hội gặt, Hội tương tế… Hình thức hoạt động này đã tập hợp được số đông phụ nữ
tham gia và góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống lại sự áp bức đối với
phụ nữ. Tổ chức “Phụ nữ Giải phóng” được hình thành năm 1930 - 1931 đã thu hút
đông đảo phụ nữ tham gia vào cao trào đấu tranh cách mạng (điển hình là Xô viết Nghệ Tĩnh). Tổ chức đã tuyên truyền, vận động phụ nữ tham gia đấu
tranh đòi quyền lợi kinh tế, đòi cải thiện đời sống, chống áp bức của đế quốc
phong kiến.
Giai đoạn 1936 - 1939: trước yêu cầu của cách mạng, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 8/1937 về công tác vận động phụ
nữ đặt ra nhiệm vụ chống phát xít, chống chiến tranh bằng
hình thức công khai, hợp pháp. Vì vậy, tổ chức cách mạng của phụ nữ được đổi
thành Hội phụ nữ Dân chủ. Hội đã tuyên truyền đường lối, quan điểm của
Đảng về giải phóng phụ nữ, nam nữ bình đẳng
và tổ chức các hoạt động gắn với tính chất ngành nghề của phụ nữ để đấu tranh
đòi tự do dân chủ, đòi quyền lợi cho phụ nữ như: hội Ái hữu, hội Truyền bá quốc
ngữ. Trong đấu tranh, phụ nữ công nhân các nhà máy đông nữ như Dệt Nam Định, Tơ
Hải Phòng, Mỏ Quảng Ninh, Diêm Bến Thủy, Thuốc lá Sài Gòn, Gấm Thủ Dầu Một… đã
nêu những tấm gương bền bỉ, kiên cường.
Giai đoạn 1939 - 1941: Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng
nổ, Đảng chủ trương: “Vận động phụ nữ tổ chức các hội phụ nữ phản chiến, các
hội cứu tế, bảo an… để giúp đỡ nhau, chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình”.
Để phù hợp với tình hình, Hội lấy tên là Hội phụ nữ Phản đế. Hội đã vận
động chị em tham gia mít tinh, biểu tình, lập các hội cứu tế, bảo an, tham gia chống
bắt lính với khẩu hiệu chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình, đòi bồi thường
chiến tranh. Phụ nữ thoát ly gia đình, tham gia hoạt động
cách mạng ngày càng đông đảo, góp phần xây dựng lực lượng chuẩn bị Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền. Thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai
đọan, các tầng lớp phụ nữ được tập hợp trong tổ chức “Hội phụ nữ phản đế”,
thành viên của Mặt trận nhân dân phản đế Đông Dương (năm 1939), và “Đoàn
phụ nữ cứu quốc”, thành viên của Mặt trận Việt Minh (năm 1941) để tuyên truyền,
phổ biến chủ trương của Đảng, tập hợp và xây lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước.
Giai đoạn 1941 - 1945: Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được
thành lập ngày 16/6/1941. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn Phụ nữ cứu quốc đã
vận động các tầng lớp phụ nữ gia nhập Mặt trận Việt Minh, gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi Nhật, xây
dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng. Phụ nữ là lực lượng hùng hậu, đóng góp lớn vào
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Để gấp rút chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính
quyền, phụ nữ đã tích cực tham gia các phong trào đánh Pháp, đuổi
Nhật, phá kho thóc giải quyết nạn đói... Hội phụ nữ vận động các hội viên
bí mật xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng. Nhờ vậy, phong trào phụ nữ ngày
càng lớn mạnh, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hệ thống của Đoàn Phụ nữ
Cứu quốc có 4 cấp: Ban Chấp hành từ cơ sở đến huyện,
tỉnh, xứ. Cuối năm 1941 đồng chí Hoàng Ngân được giao nhiệm vụ Bí thư Phụ
vận xứ Bắc Bộ.
Tập hợp phụ nữ thực hiện mục
tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất và bảo vệ đất nước
Giai đoạn 1946 - 1954: kháng
chiến chống thực dân Pháp
Ngày 3/10/1946, Bộ trưởng Bộ
Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phép thành lập Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Hội chính thức được thành lập gồm nhiều đoàn thể
phụ nữ trong đó Đoàn Phụ nữ Cứu quốc là tổ chức nòng cốt, hoạt động trong khuôn
khổ là một tổ chức thành viên của Hội LHPN Việt Nam. Ngày 20/10/1946, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam làm lễ ra mắt tại Quảng trường Nhà hát Lớn,
Hà Nội. Đồng chí Lê Thị Xuyến được cử làm Hội trưởng lâm thời Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam. Tên gọi Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam được duy trì cho đến ngày nay. Từ ngày 18 - 29/4/1950: Đại hội
Đại biểu Phụ nữ Toàn quốc lần thứ nhất được diễn ra tại Đại Từ, Thái Nguyên (Chiến khu Việt Bắc). Đoàn Phụ
nữ Cứu quốc hợp nhất với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành một
tổ chức Hội thống nhất lấy tên là Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) Việt Nam.
Đồng chí Lê Thị Xuyến được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Hội LHPN Việt Nam đã vận động các tầng lớp phụ nữ tham gia thực hiện
nhiều phong trào như: phụ nữ học cày bừa; phụ nữ tăng gia sản xuất đảm bảo cho
bộ đội “ăn no đánh thắng”; mua công phiếu kháng chiến; “Diệt
giặc dốt”; “diệt giặc đói”: “Đời sống mới”; tham gia Hội mẹ chiến sĩ… Trong 18
chiến dịch lớn của cả nước, phụ nữ đã đóng góp 9.578.000 ngày công. Cũng trong
giai đoạn này, lực lượng phụ nữ tham gia dân quân du kích ngày càng nhiều. Tiêu
biểu là đội “nữ du kích Hoàng Ngân” thu hút 7.365 chị em tham
gia. Các chị đã cùng quân dân tỉnh Hưng Yên đánh hơn 1.000 trận, lập chiến công
lẫy lừng. Phong trào nữ du kích Hoàng Ngân còn được Bộ Quốc phòng tổng kết kinh
nghiệm và nhân rộng điển hình, phổ biến cho các tỉnh trong kháng chiến chống Mỹ
ở miền Nam và miền Bắc… Trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, phụ nữ các
dân tộc Tày, Thái, Mèo, Dao, Nùng, Hoa, Puộc, Xá… đã tham gia đông đảo. Chị em
đã ngày đêm vượt suối, băng ngàn, làm mọi công việc vận chuyển, tiếp tế lương
thực, đạn dược, tải thương, thổi cơm, đưa nước cho bộ đội, làm hầm, chữa cầu
đường… Có thể nói, Hội LHPN Việt Nam đã bằng mọi nỗ lực vận động
chị em phụ nữ tham gia vào tất cả các lĩnh vực hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Giai đoạn 1954 - 1975: kháng
chiến chống đế quốc Mỹ ở miền Nam và xây dựng CNXH ở miền Bắc
Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ
1954 về Đông Dương, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị
khác nhau, miền Bắc xây dựng CNXH, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Nhằm tập hợp rộng rãi lực lượng cách mạng và phát
huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, Đại hội
III của Đảng đã chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở
miền Nam. Ngày 20/12/1960, tại vùng giải phóng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành
(nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam được thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc,
các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính
trị. Cùng với đó, ngày 8/3/1961, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt
Nam được thành lập với vai trò
tập hợp phụ nữ miền Nam Việt Nam đoàn kết trên mặt trận giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Tổ chức Hội phụ nữ hai miền Nam Bắc thực
hiện những nhiệm vụ, hoạt động phù hợp với từng miền và cùng hướng tới mục tiêu
chung là đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ, đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống
nhất đất nước. Đồng thời, tổ chức Hội hai miền phát động phong trào riêng, có
tác động lan tỏa và sâu rộng trong các cấp Hội phụ nữ.
Tháng 3/1961, Đại hội đại biểu Phụ
nữ toàn quốc lần thứ III họp tại Hà Nội đã phát động phong trào thi đua “5 tốt” với các nội dung: Đoàn kết sản xuất, tiết
kiệm tốt, chấp hành chính sách tốt, tham gia quản lý tốt, học tập chính trị,
văn hoá, kỹ thuật tốt, xây dựng gia đình nuôi dạy con tốt. Ngày 5/8/1964, Đế
quốc Mỹ dựng lên cái gọi là “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, lấy cớ dùng không quân bắn
phá miền Bắc. Trước tình hình đó, tháng 3/1965, Trung ương Hội LHPN Việt Nam
phát động phong trào “Ba đảm đang” với
các nội dung: đảm đang sản xuất và công tác, đảm đang gia đình, đảm đang phục
vụ chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu. Phong trào Ba đảm đang là bước phát triển
mới của phong trào 5 tốt, trở thành nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động của Hội
LHPN Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975, là một trong những phong trào thi đua có
quy mô lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời kì hiện đại, trở thành hoạt động
nổi bật, tiêu biểu trong lịch sử tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt Nam và
là bộ phận khăng khít của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Đại hội lần thứ nhất Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền
Nam (3/1965), Hội đã phát động phong trào thi đua “5 tốt” với nội dung: Đoàn kết đấu tranh chính
trị, võ trang, binh vận tốt; Lao động sản xuất, tiết kiệm tốt; Chăm sóc, nuôi
dưỡng thương bệnh binh tốt; Học tập văn hoá, chính trị, chuyên môn tốt; Rèn
luyện tư cách đạo đức tốt.. Với phong trào “5 tốt”, hàng triệu hội viên phụ nữ
giải phóng được tôi luyện trong phong trào đấu tranh với 3 mũi giáp công linh
hoạt, được tổ chức chặt chẽ ở ba vùng chiến lược (nông thôn, đô thị, miền núi).
Trên khắp miền Nam, phụ nữ giải phóng luôn là lực lượng nòng cốt đi đầu trong
phong trào đấu tranh chính trị trực diện, hình thành nên một “Đội quân tóc dài”
hùng hậu, nổi tiếng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Phụ nữ miền Nam
đã anh dũng thi đua giết giặc, trong gian nan vẫn một lòng trung kiên, bất
khuất. Thi đua với phụ nữ Nam bộ, những tấm gương phụ nữ miền Bắc anh dũng của
Đại đội pháo nữ dân quân Ngư Thuỷ (Quảng Bình) bắn cháy liên tiếp 3 tàu chiến
Mỹ hay của Trung đội nữ dân quân Hoằng Hải (Thanh Hóa) bắn rơi máy bay Mỹ…
đã khẳng định trí tuệ, sáng tạo và tinh thần kiên cường, quật khởi của các tầng
lớp phụ nữ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Phát biểu tại lễ kỷ niệm ngày thành
lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (19/10/1966), Hồ Chủ tịch đánh giá: “Phong
trào 5 tốt của phụ nữ miền Nam, phong trào Ba đảm đang của phụ nữ miền Bắc là
phong trào yêu nước nồng nàn và rộng khắp, lôi cuốn đông đảo phụ nữ hai miền
thi đua sản xuất, phục vụ chiến đấu, góp phần to lớn vào sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước của toàn dân”
Hội LHPN Việt Nam - phát triển
và hội nhập
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975,
thực hiện Nghị quyết của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc thống nhất các đoàn
thể nhân dân, từ ngày 10-12/6/1976, Hội nghị Thống nhất Hội LHPN toàn quốc được
tổ chức. Hội nghị đã nhất trí quyết nghị: Thống nhất sự chỉ đạo hoạt động của
Hội LHPN trong cả nước trong một tổ chức là Hội LHPN Việt Nam. Hội nghị cũng
quyết định lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội LHPN Việt Nam.
Đến năm 2010, tại thông báo số 382-TB/TW ngày 15/10/2010 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Ban Bí thư đồng ý lấy ngày 20/10 hàng năm là ngày
Phụ nữ Việt Nam.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày
một lớn mạnh không ngừng, đã và đang phát huy truyền thống
tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam; kế thừa các thành quả to lớn của phong trào phụ nữ
và hoạt động Hội; bám sát nhiệm vụ chính trị của đất nước, tiếp tục xây
dựng tổ chức Hội vững mạnh, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong công tác phụ
nữ và chức năng đại diện của tổ chức Hội. Hội đã đổi mới mạnh mẽ, toàn
diện, đồng bộ nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết
thực, chuyên nghiệp; tập trung tham mưu, đề xuất chính sách, giám sát,
phản biện xã hội; tăng cường vận động xã hội, tích cực hội nhập quốc tế; chăm
lo tốt hơn lợi ích chính đáng của phụ nữ, tạo động lực động viên đông đảo phụ
nữ phát huy dân chủ, cần cù, năng động, sáng tạo, trách nhiệm xây dựng đất nước
phát triển nhanh, bền vững, xây dựng gia đình hạnh phúc, nâng cao vai trò, vị
thế của phụ nữ và tổ chức Hội, thực hiện mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ và
bình đẳng giới. Hưởng ứng phong trào thi đua và các cuộc vận động của đất
nước, Hội vận động hội viên, phụ nữ trong cả nước thực hiện phong trào thi
đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh
phúc” và hai cuộc vận động “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: tự
tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”; “Xây dựng gia đình 5 không, 3
sạch” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh; phối hợp với các Bộ, Ban, ngành, đoàn thể liên quan tích cực thực
hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đề án của Chính phủ; có những
đề xuất tham mưu chính sách, phát động nhiều phong trào góp phần quan trọng vào thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và xây dựng đất
nước. Hội đã đạt được những bước tiến dài trên con đường tạo lập vị thế
bình đẳng cho phụ nữ Việt Nam với việc Bộ Chính trị ban hành các Nghị quyết
của Đảng về công tác phụ nữ (Nghị quyết 04 (năm 1993); Nghị quyết 11
(2007) và sự ra đời của Luật Bình đẳng giới, thực hiện chính sách thai
sản cho phụ nữ, các quy định trong Bộ luật lao động liên quan đến lao động
nữ…
Những dấu ấn đáng ghi nhớ trong
phong trào phụ nữ và hoạt động Hội từ năm 1976 đến nay
- Năm 1978: Phong trào “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Năm 1989: Hội LHPN Việt Nam phát
động hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình” và “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và
bỏ học”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc
lần thứ VII (1992): Tiếp tục thực hiện hai cuộc vận động “Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình”, “Nuôi dạy con tốt, góp phần hạn chế trẻ em suy dinh dưỡng và bỏ
học”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ
VIII (19/5/1997): phát triển hai phong trào thi đua từ Đại hội
VII thành phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc” và “Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng
đất nước”; Phong trào “Ngày tiết kiệm vì Phụ nữ
nghèo”; Liên đoàn Lao động Việt Nam tiếp tục phát động phong
trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” thực hiện trong nữ công nhân viên chức
và người lao động;
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần
thứ IX (2002): tiếp tục phát động phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực
học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ X
(01/10/2007): tiếp tục phát động phong trào thi đua: “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình
hạnh phúc” gắn với thực hiện Cuộc vận động Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; vận động các tổ chức, cá nhân ủng hộ xây
dựng Mái ấm tình thương cho phụ nữ nghèo. Năm 2010, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, hưởng
ứng chương trình xây dựng nông thôn mới, Hội phát động cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không 3 sạch”.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc
lần thứ XI (2012) phát động phong trào thi đua “Phụ nữ
tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; đồng thời triển khai sâu rộng 2 cuộc vận động “Xây dựng gia
đình 5 không, 3 sạch” góp phần xây dựng nông thôn mới, đô thị
văn minh và “Rèn luyện các phẩm chất đạo
đức: Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh.
- Đại hội Phụ nữ toàn quốc
lần thứ XII (2017): Phong trào thi đua: “Phụ
nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” và
hai cuộc vận động: “Rèn luyện phẩm chất đạo đức: Tự tin, tự trọng,
trung hậu, đảm đang”gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh: “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch” góp
phần xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Có thể nói, trải qua lịch sử 93 năm
trưởng thành và phát triển, dưới sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Hội
LHPN Việt Nam đã và đang ngày càng có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp
bảo vệ, xây dựng đất nước và sự nghiệp giải phóng phụ nữ, sự tiến bộ của phụ nữ
và bình đẳng giới. Hội LHPN Việt Nam xứng đáng là tổ chức đại diện, chăm lo,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mọi tầng lớp phụ nữ Việt Nam.
Hội chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành chủ trương, đường lối, chính
sách pháp luật có ý nghĩa chiến lược về công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Trên
cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, các cấp Hội trong nước đã tổ chức thực hiện
được nhiều chương trình hoạt động, tuyên truyền vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng
cao nhận thức, năng lực, trình độ, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, tạo
điều kiện để phụ nữ tiến bộ, bình đẳng. Tổ chức Hội được củng cố và phát triển,
không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Tích cực tham gia xây dựng
Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. Đội ngũ cán bộ Hội nhiệt tình, tâm
huyết, phấn đấu nâng cao năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Hội cũng phát huy vai trò, mở rộng hợp tác, thực hiện tốt công tác đối ngoại
nhân dân, chú trọng phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác, tích cực tham gia các
cơ chế đa phương./.